![]() ![]() ![]() ![]() |
||
Human Rights Watch Tác Phẩm của Hà Thúc Sinh ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() Quyền Của Lửa ![]() July 01-1999 Liên lạc: ![]() Vietnam Human Rights Watch P.O. Box 578 Midway City, CA. 92655, USA |
![]() CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN Miền Nam hai mùa mưa nắng rõ rệt nên nó không có cảnh thốt nhiên cây cỏ ủ rũ của mùa đông hoá thành xanh tươi để báo hiệu cho một mùa xuân. Ðời tự do đã khó phân biệt, nói chi những kẻ ngồi đếm lịch trong tù cộng sản. Thế nên, nếu không có những chiến dịch thi công mừng tết dân tộc do bọn cai tù phát động thì hẳn lũ tù chẳng thể tìm ra tờ lịch nào là tờ báo hiệu cho một ngày nguyên đán. Công tác thi công của tổ A3 là phá sạch những nền nhà sau cùng nơi khu Hành chánh Tài chánh thuộc Bộ tư lệnh Sư đoàn 25 trước kia. Suốt ngày trầm mình dưới nắng, bọn Vĩnh phải lấy sức người và những vật dụng tự chế để phá nền nhà. Lâu lâu lại có một tiếng nổ, lại có những bóng người chạy hớt hải tìm cách cấp cứu nhau. Tiếng nổ như thế hay xảy ra ở những ụ đất phòng thủ căn cứ, khi tù cuốc nhằm những đầu đạn M79 hoặc đạp nhằm mìn cóc, mìn râu trong lúc khổ dịch khai quang. Nhiệm vụ khai quật nền nhà, do vậy, tuy có cực nhưng an toàn hơn. Dù sao công việc này đã có thể thoải mái hơn nữa nếu mỗi ngày Vĩnh và các bạn không phải nghe thấy tiếng gào la phát ra từ một cái tủ sắt lớn (dùng dựng bạc xưa kia?) Cái tủ bằng phần ba cái conex giờ nằm trơ vơ giữa trời trên một nền xi măng. Nó được đục vài lỗ thông hơi với nhiều lỗ đạn lỗ chỗ. Tỷ và Non bị nhốt trong đó. Tiếng gào khàn khàn, tắc nghẽn của họ chẳng phải để kêu ca oan uổng, chẳng phải để đầu hàng cái cực hình họ đang chịu, mà chỉ để: "Nước, cho tôi nước!" "Trời ơi, cho tôi nước!" "Nước, cho tôi một giọt thôi, trời ơi!" Tiếng gào đứt ruột ấy thường làm Vĩnh chết lặng. Lao động bên ngoài dưới nắng Tây Ninh cứ mỗi dăm phút người ta lại phải uống nước để không héo người vì nắng, bị nhốt trong cái hộp chật chội thế kia còn khát tới đâu? Có lần Vĩnh đánh bạo xin phép tên vệ binh ngồi canh tù trong bóng mát gần đấy: "Báo cáo anh tôi cho hai anh trong đó gáo nước được không?" Tên vệ binh nhăn mặt: "Muốn vào đó luôn thì cứ việc." Vĩnh không xin nữa. Anh đã có ý định. Khi tên vệ binh bước sang kiểm soát khu vực khác, Vĩnh nhìn sô nước uống của bán tổ ngẫm nghĩ. Cái hộp sắt chỉ có vài lỗ thông hơi không tiếp nước cho họ uống được. Vĩnh quyết định hỏi qua ý kiến tổ trưởng Tứ. Anh nhìn Vĩnh với vẻ khó chịu như người thình lình bị dồn vào chân tường. Tuy nhiên Tứ không nói gì. Anh ta chỉ thoáng nhìn trời nhìn đất rồi cúi khuân tiếp những tảng xi măng lớn vứt vào một đống. Vĩnh quyết định. Anh xách sô nước lên, nhìn quanh một vòng, đến sát tủ sắt gần mấy lỗ thông hơi, rồi hắt nguyên sô nước vào mấy cái lỗ ấy. Bên trong chỉ có những tiếng lục đục mà không nghe ai nói gì. Vĩnh thầm nghĩ có lẽ hai đứa đang lên thiên đàng. Chúng có thể đã quên hết ngôn ngữ của trần gian này rồi. Vĩnh xách cái sô không trở lại chỗ cũ. Anh quay lại với công việc, vừa làm vừa nghĩ. Hai đứa bị nhốt như thế mỗi ngày chỉ được phát tiêu chuẩn nửa lít nước uống làm sao chịu thấu. Rồi Vĩnh không khỏi uất lên nhớ lại chuyện xưa. Bị ngộ độc bởi đòn tuyên truyển của cộng sản, cả thế giới tự do bỗng trở mặt với đồng minh vì toàn những lý do không chính đáng, và một trong những lý do không chính đáng nhất là vụ chuồng cọp. Giá như một số trí thức, văn nghệ sĩ, báo chí phản chiến bất lương đui mù chúng lên án này kia kia nọ còn khả thứ, đàng này ngay giới lập pháp Mỹ cũng mù nốt. Vĩnh còn nhớ một phái đoàn dân biểu Mỹ do dân biểu Paul Mc. Closkey đi điều tra tình hình đông dương vào đầu tháng 3-1975, trước khi về nước đã họp báo ở Tân Sơn Nhất kêu gọi tổng thống Thiệu đình chỉ việc bắt giữ và tra tấn tù nhân chính trị nếu muốn VNCH còn được hưởng viện trợ Mỹ. Ngày nay bọn ấy đang ở đâu? Họ có biết giá xưa có chuồng cọp thì những chuồng cọp ấy so với lối giam ngày nay của cộng sản chỉ đáng sắp hạng em út. Thật bất công, Vĩnh nghĩ, nếu trời không tạo một dịp để nhúng những kẻ ấy vào lửa cộng sản một lần cho họ được sáng mắt ra. Với riêng Vĩnh, mùa xuân đầu trong tù đến với tâm trạng và quang cảnh như thế. Tuy nhiên, trước tết hai tuần, cả trại, trong tất nhiên có Vĩnh, lòng bỗng nở rộ một đoá Hy Vọng rực rỡ lạ thường: Ðợt đầu tiên được thả. Toàn trại L4T3 được thả mười bốn người. Khối 2 chiếm tỉ số cao nhất trại là 6 trên 14 và tổ A3 chiếm kỷ lục trong khối 2 với tỉ số 2 trên 6. Hai tổ viên A3 được thả là Văn, hải quân trung uý và Nguyên, thiếu uý giảng viên trường Sinh ngữ Quân đội. Ba Tô của A7 cũng được thả trong dịp này. Dù số người được thả không lấy gì làm khích lệ cho lắm, nhưng quả thực việc này đã khiến nhiều người tối mặt tối mày. Hy vọng sống lại thật nhanh bằng một lý luận giản dị: Như thế là cánh cổng trại đã hé mở, nếu chưa thể mở toang một lượt thì cũng sẽ được mở rộng từ từ, nay anh mai tôi... Nhưng cũng nhân vụ thả, bọn cai tù lại có dịp lôi tù lên lớp khoe khoang về đường lối khoan hồng trước sau như một của nhà nước cộng sản. Và để không khí trại thêm phấn khởi, bọn cai tù chấm dứt đợt thi công sớm hơn hai ngày với bản báo cáo tất niên được đọc trước trại có nội dung rất vượt chỉ tiêu, vượt đến nỗi bọn tù ngồi dưới đâm ngượng với thành quả lao động vốn tự biết rất khiêm tốn của chính mình. Trong quý 4, nào là khối 1 đã cải tạo được ba mươi mẫu đất đá ong biến thành nơi canh tác tốt; nào là khối 2 đã giải phóng được hai mươi tấn đạn dược nhiều loại khỏi các hầm chứa trong nội vi trại, và đã phá huỷ được hơn 100 nền nhà Mỹ... Nghe thủ phó Môn đọc báo cáo thành quả trước tập thể, có đại diện trung đoàn chủ toạ, mà tù hết hồn. Ở đâu không biết chứ người khối 2 làm sao không rõ chuyện khối 2. Ðạn đâu mà lắm thế. Rồi nền nhà Mỹ nữa, tính rộng lắm cũng chỉ có chừng ba mươi cái trong phạm vi trách nhiệm của L4T3; ba mươi cái mà tay không phá trong mấy tháng đã đủ thấy ông thấy bà, 100 cái phá sao cho hết, mà có hết đi nữa thì lấy nền đâu ra mà phá! Thời còn nhỏ sống trong liên khu tư Vĩnh đã sớm nghe sớm hiểu ý nghĩa ba chữ "bờ cờ lờ" (báo cáo láo) trong giới vẹm thủa ấy. Hai mươi mấy năm qua Vĩnh không ngờ bệnh bờ cờ lờ vẫn không thuyên giảm tí nào, nặng hơn là đàng khác. Nhưng chúng muốn báo cáo với thượng cấp thế nào, mặc, bọn tù chỉ riêng lấy làm hân hoan khi chính thủ trưởng trại trân trọng thông báo rằng vào dịp tết tới đây, cách mạng rất quan tâm và sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các cải tạo viên vui chơi đủ ba ngày. Tiếp theo lời thông báo ấy, tay hậu cần trại đã đọc một danh sách các món ăn mà tù sẽ được hưởng trong dịp tết như thịt lợn, nếp, bánh kẹo và có thể có cả tí... máu nhân dân. Nhưng tết chưa đến. Những món béo bở còn nằm trong bản dự trù cấp phát. Dù vậy, tù phải bắt tay sửa soạn thực hiện một đêm văn nghệ cho toàn trại. Ðặng Thế Tiến khối 4 được bầu làm phối trí viên; Nguyễn văn Hoá khối 3 phụ trách ban hợp xướng; Lê văn Tần khối 1 phụ trách dàn dựng một vở kịch; Nguyễn Thành Ðính khối 2 phụ trách vũ; Trần văn Chung khối 3 phụ trách ảo thuật; Hiếu Ðệ khối "cũ" có Ðặng Ngọc Sinh khối 2 trợ lực phụ trách trang trí sân khấu và hoá trang. Riêng ban nhạc hầu hết là người khối 2 phụ trách với Vĩnh contre-basse, Nguyễn văn Lộc guitare, "ông đạo dừa" Nguyễn Lâm trống; thêm Ðặng Thế Tiến khối 4 guitare và Kiều Công Long khối 4 mando. Trong khi ở các khối các ban lân, thể thao, ẩm thực... lo xúc tiến công tác của họ thì trên hội trường ban văn nghệ liên khối cũng khởi sự tập dượt ráo riết. Trên sân khấu đạo diễn Tần suốt ngày la hét với ban kịch của hắn. Ở một góc hội trường, nhạc trưởng Hoá vã mồ hôi với ban hợp xướng năm mươi người, gồm toàn thứ ca sĩ bất đắc dĩ gia nhập ban hát để trốn lao động chân tay. Bài hát được Hoá tập cho ban hợp xướng là bài "Mùa Xuân Ðầu Tiên" của Văn Cao được in trên báo Sài Gòn Giải Phóng. Chính chính trị viên Thảo đưa bài này cho Hoá. Hoá có vẻ thích một phần nhạc khá hay, lời cũng tương đối ướt át lãng mạn và nhất là không có vụ chửi bới "Mỹ nguỵ" trong đó. Trước tết năm ngày việc tổng dượt có kiểm tra của đại diện ban quản giáo được thực hiện. Tên quản giáo già khó đăm đăm của khối 4 xuống trụ trì. Hắn lượn một vòng xem ban vũ biểu diễn, khen chê vài tiếng lấy lệ rồi lướt qua ban kịch, sau cùng dừng chân trước ban hợp xướng. Nhạc trưởng Hoá đợi lúc tên quản giáo đến gần mới ra hiệu cho ban nhạc nổi những nốt dẫn nhập. Tên quản giáo già vừa nghe thấy mấy tiếng đàn trầm đã kinh ngạc thốt lên: "A, các anh chế được cả đàn công-tờ-rờ-bạt-xờ cơ đấy!" Ðám tù đều nhịn cười. Hoá vội quay lại, giọng nhỏ nhẹ: "Vâng thưa anh, đàn-công-tờ-rơ-bạt-xờ." Cái vụ lập lại chữ tiếng tây theo giọng cách mạng của Hoá khiến cả ban hợp ca chịu hết nổi phải phá lên cười. Tên quản giáo không hiểu, ngẩn ra. Hắn trố mắt lên, hỏi chung: "Chứ tôi nói sai à? Cái đàn ấy không phát ra âm công-tờ-rờ-bạt-xờ là cái gì đấy?" Thấy cười nữa có thể nguy, bọn tù đành nuốt tiếng cười vào bụng cái ực. Hoá giơ tay gãi trán, nói lướt: "Báo cáo anh âm ấy đúng là công-tờ-rờ-bạt-xờ nhưng hình dạng thì không phải thế." Tên quản giáo ra điều hiểu biết, nói: "Thì tôi nói âm chứ có nói hình dạng đâu, hình dạng thì các anh làm sao có được vì ngay nhà hát lớn ngoài thủ đô Hà Nội ta cũng mới có một cái," hơi ngẫm nghĩ, hắn tiếp, "thôi các anh tập đi kẻo mất thì giờ, tôi tham quan tí còn đi các nơi khác." Nói rồi hắn bước xéo ra đứng gần cửa quan sát. Hoá nhìn anh em một thoáng. Ngón tay anh vẩy nhè nhẹ cho các nhạc khí nối nhau cất lên. Bất ngờ anh vung tay như chộp một con ruồi bên trái, hai mươi giọng cánh tả đồng lượt trổi lên: Rồi dập dìu mùa
xuân theo én về
Vừa hát được ba câu cả ban im bặt. Họ thấy tên quản giáo nhảy nhổm như ngồi trúng cây kim. Hoá thấy anh em ngưng hát ngang xương và đồng ngó về phía quản giáo, biết điềm không lành anh vội quay lại vừa lúc hắn bước tới, trợn mắt méo mồm mắng: "Im hết đi, hát cái bài nhảm nhí gì vậy?" Hoá hơi nhăn mặt dù vẫn cố giữ giọng phân trần: "Báo cáo anh..." Hắn khoa tay chận Hoá lại: "Tôi bảo im. Ai, ai trong các anh là kẻ soạn ra bài hát này," hắn hùng hổ lên lớp. "Một bài hát hoàn toàn phản động, nguỵ từ nội dung đến hình thức." Nhạc trưởng Hoá ngỡ ngàng như từ trời rơi xuống. Anh cố phân bua: "Dạ thưa..." "Anh chưa được nói," hắn nghiêm giọng. "Tôi sẽ phân tích tính phản động của bài hát này trước, sau đó kẻ sáng tác sẽ phải trả lời trước ban quản giáo trại. Tôi nhắc lại, đây là một bài hát cực kỳ phản động. Thứ nhất nhạc cách mạng không được phép uỷ mị như thế. Rõ ràng đây là một bài nhạc vàng, đã dùng thể điệu van-xờ, một thể điệu bọn nhạc sĩ phản động ưa dùng để diển tả cái tâm tình uỷ mị thấp kém, làm suy giảm tinh thần đấu tranh của nhân dân ta. Thể điệu van-xờ..." Những người hiện diện trong hội trường đều nửa khóc nửa cười. Hoá nhất định lên tiếng: "Thưa anh..." Tên quản giáo vẫn nhất định không cho Hoá nói. Hắn cướp lời: "Anh ngoan cố tôi cùm anh ngay. Tôi chưa nói hết. Dứt khoát tôi cấm các anh học tiếp bài van-xờ này. Nó phản động. Mùa xuân thế này mà dám bảo là mùa xuân bình thường à? Một mùa xuân đại thắng, mùa xuân đầu tiên độc lập, tự do và thống nhất, mùa xuân tốn bao xương máu các chiến sĩ cách mạng mới quy được đất nước về một mối, mùa xuân như thế mà dám bảo là mùa xuân bình thường à? Bố láo bố lếu. Bài này ở đâu ra? Ai cho phép các anh học hát bài này?" Hoá thấy không phải chuyện nhỏ rồi nên anh vội trình bày: "Báo cáo anh bài này anh chính trị viên Thảo đã thuận cho tập. Vả lại nó là bài hát cách mạng." Hắn chỉ mặt Hoá, quát: "Bố láo, đừng nói bố láo!" Hoá vội móc túi quần sau chìa ra một mảnh Sài Gòn Giải Phóng nhàu nát có đăng bài hát. Tên quản giáo cầm lấy, mần mò như người ta nặn nút bài cào, mãi một lát mới nhét vào túi áo, nhăn mặt lẩm bẩm, "Lạ, lạ nhỉ. Sao báo lại cho đăng một bài hát có nội dung phản động thế này!" Nghĩ ngợi một thoáng, hắn nói với Hoá, "Thôi được, tạm thời các anh học bài khác. Tôi sẽ trình đồng chí chính trị viên nghiên cứu lại bài hát này." Nói xong hắn bước thẳng ra cửa trước sự ngơ ngác của lũ tù. Ra tới cửa nghĩ sao hắn dừng chân, quay lại dặn Hoá câu cuối, "Học bài nào thì học, nhưng cấm ngặt không được học và trình diễn những bài có thể điệu van-xờ đấy nhé." Vĩnh ngao ngán ngó lên sân khấu. Tần đang nhảy choi choi và la hét luôn miệng. "Cắt, cắt," hắn gắt. "Ðm. chỗ đó mày phải té xuống, mày phải cố gắng kéo mép phải lên gần lỗ tai, càng gần càng tốt để tạo nét mặt cực kỳ đau đớn. Bị bắn vào bụng mà chỉ nhếch mép như cười tình coi thế đếch nào được. Thằng Hoàn nữa. Tao bảo mấy lần rồi. Khi súng nổ mày phải hốt hoảng chạy từ cánh gà bên trái vào phía bàn thờ tuốt trong kia để tạo chiều sâu sân khấu, cứ chập chờn phía ngoài như cứt nổi trên sông thế kia trông chán lắm!" Trong lúc ban hợp xướng tập lại với bài "Hò Kéo Pháo" thì chính trị viên Thảo xuất hiện nơi cửa hội trường. Hắn đảo mắt một vòng rồi bước lại phía Hoá. Ðợi cho câu hát cuối cùng chấm dứt hắn mới lên tiếng: "Này anh Hoá." Hoá quay lại. "Ồ anh," Hoá nói. "Tôi đang muốn gặp..." Chính trị viên Thảo khoa tay: "Tôi quán triệt vấn đề rồi. Cứ yên tâm tập dượt như thường. Tôi sẽ ở đây đích thân kiểm tra." Hoá muốn nhân dịp chơi tên quản giáo khối 4 một cái. Anh nhỏ nhẹ nói với Thảo: "Báo cáo anh ban nãy theo sự lên lớp của quản giáo khối 4, anh em đều ái ngại và không muốn tập tiếp bài ‘Mùa Xuân Ðầu Tiên’ nữa." Chính trị viên Thảo lại xua tay như đuổi ruồi: "Ðã bảo rồi. Tôi trách nhiệm và cho các anh trình diễn bài ấy. Cái nhà anh quản giáo Thìn ấy thì biết cái gì. Anh ấy học chưa qua lớp ba ấy mà." Thấy chính trị viên còn coi đồng bọn chẳng ra gì, Hoá không nói thêm nữa. Anh quay lại điều khiển anh em hát bài "Mùa Xuân Ðầu Tiên" để chính trị viên Thảo duyệt. Thảo đứng nghe một lát ra chiều chịu lắm. Hắn đi tới đi lui, góp ý cho hết nhóm này sang toán nọ. Hắn đứng lại cạnh Hiếu Ðệ, ngó anh đang vẽ rồng vẽ phượng trên một miếng giấy bao xi-măng. "Vẽ khéo đấy nhỉ!" hắn lên tiếng khen vu vơ. "..." "Anh học vẽ lâu chưa?" Hiếu Ðệ đáp: "Báo cáo anh cũng gần ba mươi năm." "Thế thì vững tay nghề lắm. Mà xưa anh làm gì nhỉ?" "Dạ tôi dạy ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Ðịnh." "Thế sao lại đi cải tạo?" Hiếu Ðệ vừa cạo ít bột từ một viên gạch chỉ ra làm màu, vừa đáp khẽ: "Dạ tôi là thiếu uý biệt phái." Thảo giơ cao hai tay: "À ra thế. Chắc anh là sĩ quan chiến tranh chính trị?" Nghe hỏi Hiếu Ðệ giãy như đỉa phải vôi: "Thưa không. Tôi không dính gì tới ngành chiến tranh chính trị." Trước khi bước tới ngồi nơi chiếc ghế kê trước sân khấu xem tù dượt kịch, Thảo an ủi Hiếu Ðệ: "Tội anh thế cũng nhẹ. Cố gắng phục vụ tập thể tốt để được cách mạng xét cho về còn đem tài ra phục vụ nhân dân." Hiếu Ðệ vừa vẽ vừa ậm ừ cho qua chuyện. Phía bên này ban nhạc đã dượt xong. Bọn Vĩnh xách điếu cày lại ngồi cánh trái sân khấu xem ban kịch tổng dượt. Vở kịch được Tần dựng có nội dung không xuất sắc lắm: Một công nhân gốc miền Nam thoát ly theo lời bác gọi, sau trở vào Nam chiến đấu chống Mỹ cứu nước. Anh không hề được biết những chuyện đã xảy ra cho mẹ và vợ ở quê nhà -- một vùng ngoại ô Sài Gòn. Khi miền Nam đã được giải phóng anh vinh quy bái tổ với đôi dép râu, chiếc nón tai bèo và mươi ký gạo ăn đường vác vai. Lúc về tới sân nhà thì trời đã tối, anh khẽ đẩy cánh liếp nhìn vào và chết lặng vì xúc động. Người vợ vẫn ở vậy chờ anh. Vợ chồng gặp nhau hàn huyên một lát anh mới nhớ ra quanh anh còn thiếu một người thân yêu. Má đâu? Anh hỏi. Chị vợ lúc này mới oà lên khóc. Chị kể trong hai mươi năm anh bỏ nhà đi chiến đấu gia đình đã chịu nhiều tai biến. Chị thì bị Mỹ nguỵ càn quét nhiều phen hãm hiếp, còn mẹ thì bị địch xả súng bắn chết. Kể lể xong chị đến bàn thờ mẹ chồng đốt mấy cây nhang cắm trên cái bát. Ðến lúc này anh cán bộ mới nhận ra bàn thờ mẹ. Theo đúng truyền thống cách mạng anh không khóc như những kẻ bình thường, mà giơ cao quả đấm, lập lại lời quen thuộc đảng dạy: "Ta sẽ biến những đau thương này thành hành động cụ thể!" Màn từ từ buông. Một giọng hát từ sau sân khấu vang lên bài "Ðạp Trên Xác Thù" để chấm dứt vở kịch. Xem xong, Tiến là người đầu tiên cười, khẽ phê, "Thằng Tần chơi vợ cách mạng ghê quá. Cứ sống mãi một chỗ chỉ để chờ Mỹ nguỵ đến hiếp thì còn gì là thân thể người ta!"Nhưng cả bọn chưa kịp đấu đã phải im vì chính trị viên Thảo đã bước lên sân khấu. Hắn ra lệnh cho các "tài tử, ca sĩ" phải ngồi tụ lại nơi những hàng ghế giữa hội trường. Hắn nói: "Buổi tổng dượt hôm nay coi như tạm đủ. Quan trọng nhất là vở kịch thì tôi cũng đã kiểm tra. Qua quan sát tôi có vài nhận xét với các anh thế này. Xét chung chung các bộ môn đều nổi lên cái mặt tự biên tự diễn rất đáng biểu dương. Múa, hát, kịch nói, trang trí vân vân và vân vân đều có ưu điểm cả. Riêng vở kịch," Thảo nói tới đây nhìn quanh như tìm ai. Hắn hỏi, "Anh nào dựng và đạo diễn vở kịch nhỉ, tôi quên mất tên rồi." Bên dưới Tần vội đứng lên: "Dạ tôi, Tần." Tên chính trị viên chỉ xuống Tần: "À, anh Tần. Tôi biết, tôi biết về anh. Nhân đây tôi cũng có lời biểu dương anh; tuy nhiên, trong vở kịch xét trên quan điểm cách mạng thì còn nhiều khuyết điểm lắm đấy. Với riêng tôi, tôi thông cảm. Dù sao với một thời gian dài sống dưới chế độ Mỹ nguỵ, lại được chúng đào tạo và sử dụng vào công tác viết kịch bôi nhọ cách mạng, thì một sớm một chiều không thể tẩy sạch ngay được những khuyết điểm trong nghề dựng và đạo diễn kịch của anh. Vả lại, tôi cũng biết hầu hết những kịch sĩ như anh đều được nguỵ nó cưng chiều như trứng mỏng, được đem về tổng cục Chiến tranh Chính trị phục vụ với nhiều đặc quyền đặc lợi. Mà tôi bảo thật đấy, những anh chiến tranh chính trị nếu không là CIA cũng là CIB cả đấy!" Bên dưới anh em liếc nhanh sang Tần. Mặt anh chàng đang nghệt ra như gái ngồi phải cọc. Bên trên sân khấu Thảo vẫn tiếp tục, "Nói thì nói thế thôi, nhiệm vụ chúng tôi là giáo dục các anh, uốn nắn những sai trái nếu các anh vấp phải trong học tập cải tạo, đặc biệt trong ngành văn nghệ tự biên tự diễn, một khâu còn hoàn toàn mới lạ với các anh xét trên cơ sở văn nghệ cách mạng, phải thế không? Thế thì nhân dịp đây tôi cũng nêu ra vài khuyết điểm cụ thể nhất để các anh rút kinh nghiệm cho những lần sau." Hắn liếc đồng hồ tay, rồi tiếp, "Thì giờ sáng nay không có nhiều nên tôi chỉ nhặt ra vài điển hình trong vở kịch thôi. Khuyết điểm thứ nhất thuộc về khuyết điểm ý thức. Tại sao khi anh giải phóng vừa đẩy cánh liếp bước vào nhà đạo diễn lại cho vài tiếng chó sủa đây đó? Xét hời hợt qua hiện tượng thì việc này không thấy gì nghiệm trọng, nhưng nếu ta nâng cao quan điểm sẽ thấy ngay tính phản động trong cảnh này. Người cách mạng đâu phải lũ thổ phỉ mà bị chó sủa ran như vậy. Khuyết điểm thứ hai thuộc về hình thức, thuộc về kỹ thuật. Ðấy các anh xem," quay người chỉ cái bàn thờ vẽ nổi trên phông chính của sân khấu gồm một cụ bà có khăn ca-rô choàng cổ, có lư hương ở giữa và hai bên có hai chân nến, tên chính trị viên nói tiếp, "các anh cứ nhìn kỹ bức ảnh mà xem, có chột cũng nhận ra được đó là bức ảnh thằng Diệm. Tôi không rõ người vẽ cố tình hay vì tài nghệ chưa chín, đã vẽ một cụ bà thành hình thằng Diệm đem thờ công khai trên sân khấu." Dưới này Hiếu Ðệ mặt mày xanh xám. Anh quay sang hỏi khẽ: "Trời đất ơi, ông nhìn kỹ giùm tôi xem bức ảnh tôi vẽ có giống Ngô Ðình Diệm tí nào không." Vĩnh cười: "Sao anh dễ tin thế. Chúng nó đâu muốn cái chuyện đem bàn thờ bàn thánh lên sân khấu bao giờ. Duy vật chứ đâu duy tâm." "Không chịu thì bảo dẹp bỏ, sao chụp mũ tui nghe ghê quá vậy." Ðính ngồi sau nghe thấy, chen vào: "Công khai ra lệnh dẹp bỏ khác nào tự thú mình là đồ không cha không mẹ không thánh không thần. Cách hay nhất là tặng cho ông Hiếu Ðệ một cái mũ to tướng, tập thể ai cũng rét rồi tự động hạ bàn thờ xuống có phải là thượng sách không!" Hiếu Ðệ như hiểu ra. Anh không than thở nữa nhưng nét mặt vẫn tái xanh tưởng như cái mũ chính trị viên Thảo vừa âu yếm đội cho nặng đến nỗi anh chịu không thấu. Mãi một lát anh mới thì thầm: "Tôi vẽ hơn hai mươi năm, dạy hơn mười năm, đây là lần đầu tôi không tin ở cặp mắt của tôi nữa. Chắc đến giải nghệ mất." Vĩnh cười khẽ: "Ấy, đừng cho chúng nó ghi thêm một điểm son chứ, quan bác." Trên sân khấu tên chính trị viên còn phê phán ít điểm nữa trước khi cho giải tán ăn trưa. Vĩnh kéo một hơi thuốc lào trước khi khoác vai Ðính trở về khối. Buổi trưa sau khi nhận phần
ăn Vĩnh chan vội tí nước
muối vào ca cơm rồi xách ra đầu
hồi nhà vừa ăn vừa ngồi
nhìn nắng. Ðầu anh lộn xộn nhiều
hình ảnh. Một đoạn nhạc mới
vừa trôi qua đầu, một đoạn
nhạc xuân thật đẹp, thế mà
tự nhiên nó tắt ngấm khi anh
vừa lôi được mẩu giấy
mẩu bút ra khỏi túi. Hình ảnh
Tỷ và Non gào thét trong cơn khát
lại về đầy trong trí nhớ
anh.
|
|
![]() |