![]() ![]() ![]() ![]() |
||
Human Rights Watch Tác Phẩm của Hà Thúc Sinh ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() Quyền Của Lửa ![]() July 01-1999 Liên lạc: ![]() Vietnam Human Rights Watch P.O. Box 578 Midway City, CA. 92655, USA |
![]() THAY LỜI BẠT Một cuốn sách dày cộm trên 800 trang, trình bày đẹp, hấp dẫn, chữ in rõ ràng, không mất nét, không mờ như những sách chụp lại, đánh dấu đúng chính tả, đó là những ưu điểm của cuốn Ðại Học Máu của Hà Thúc Sinh, khi người khách hàng cầm cuốn sách đó giở vài trang xem qua để cân nhắc có nên mua, nên đọc không. Tác giả, Hà Thúc Sinh, một tên tuổi có tiếng tăm trên văn đàn Việt Nam, cũng là một yếu tố cho sự quyết định, nên tôi đã đọc cuốn đó. Và, tôi đã không thất vọng. Mặc dầu những chuyện về trại cải tạo, trại tù cộng sản đã được khá nhiều người viết và in thành sách sau 1975, nhưng với lối hành văn dí dỏm của Hà Thúc Sinh, với những sự việc được kể lại một cách trung thực cuốn Ðại Học Máu đã lôi cuốn người đọc đọc hết một cuốn sách dày cộm mà không biết chán. Với một trí nhớ phi thường về tên những người đồng cảnh ngộ, những chuyện lớn nhỏ đã xảy ra trong 1.685 ngày tù tại bốn trại giam của cộng sản, Trảng Lớn, An Dưỡng, Suối Máu, Hàm Tân, từ tháng 6-1975 đến tháng 2-1980, tác giả đã trình bày một cách trung thực qua bảy mươi chương như "những tấm hình chụp bảy mươi hoàn cảnh buồn nhưng có ý nghĩa trong đời tù cải tạo dưới chế độ cộng sản" (Lời tác giả). Hơn nữa, tác giả còn nhớ lại tất cả những bản nhạc, những bài thơ mà tác giả đã sáng tác trong thời gian bị cầm tù, sáng tác rồi viết vào trong óc, viết vào trí nhớ chứ không được ghi ra giấy tờ, thật là phi thường! Soljénitsyne, một nhà văn nổi danh người Nga, khi kể lại những sự việc xảy ra trong mười một năm ông ta bị cầm tù trong cuốn Quần Ðảo Goulag (L’archipel du Goulag, bản dịch Pháp văn, nhà xuất bản Seuil 1973), ngoài những điều ông nhớ được, ông ta đã phải nhờ đến 227 người đồng cảnh giúp cho mới tạo nên được cuốn hồi ký trong tù đó. Khác với Soljénitsyne, trong L’archipel du Golag tên những bạn đồng tù lúc thì viết rõ, lúc thì viết tắt vì những lý do dễ hiểu, Hà Thúc Sinh đã viết rõ tất cả tên những người bạn đồng cảnh của ông, người đọc nghĩ rằng vì ông quá muốn tôn trọng sự thật nên đã không giấu tên những người bạn đó, hoặc ông đã nghĩ hay đã có chứng cớ rằng những người đó không còn có thể bị cộng sản hãm hại trừng phạt nữa. Qua Ðại Học Máu, người đọc sẽ thấy những cảnh ngộ đói rét thiếu thốn khổ sở cùng cực, bệnh tật không thuốc men trong các trại cải tạo cộng sản, cảnh lao động bức bách với những điều kiện thiếu thốn, thiếu dụng cụ, thiếu vệ sinh, thiếu sức khoẻ, những sự hành hung của đám vệ binh, những câu chửi rủa lỗ mãng tục tĩu của bọn quản giáo, vệ binh, những hành động phản bội của những kẻ làm ăng-ten, cảnh giam cầm trong thùng conex dã man, rùng rợn, chúng ta còn biết được những chuyện vui buồn nhỏ nhặt của những nhân vật có tên tuổi ở Sài Gòn trước kia, những chuyện kỳ bí mà chỉ những người trong tù mới biết được như cuộc nổi loạn của tù ở trại Suối Máu Giáng Sinh 1979, như việc anh em Phục Quốc xâm nhập trại Hàm Tân giải thoát được bốn anh em tù binh, chuyện vượt ngục, chuyện một anh quản giáo cộng sản bỏ trốn trại, chuyện cộng sản sai tù binh bắt kỳ nhông chặt đuôi phơi khô làm thuốc trị bệnh bất lực sinh lý của chúng, chuyện bác sĩ cộng sản giải phẫu một tù binh trong bệnh xá nhà giam, thiếu thốn thuốc men, dụng cụ giải phẫu và đề phòng nhiễm trùng độc v.v... Sau 1.685 ngày bị tù, Hà Thúc Sinh đã được thả vì bệnh hoạn, và ông ta đã vượt biển tới tị nạn ở Hoa Kỳ. Cuốn sách của ông -- một lối ký sự không bịa đặt, không tiểu thuyết hoá như lời ông giới thiệu -- là một tài liệu quý báu cho những người may mắn không ở trong cảnh ngộ như ông, cho những người ngoại cuộc muốn tìm hiểu chế độ cải tạo, lao tù trá hình của cộng sản đối với những người lính Việt Nam Cộng Hoà. Chúng ta nhận thấy chế độ cải tạo của cộng sản đã không cải tạo gì được những người lính quốc gia, không lay động được ý chí của những người đó mà chỉ khiến họ nuôi căm thù, hờn oán, chờ dịp là bùng nổ. Hà Thúc Sinh viết: "Khi nhìn đến bàn chân của mình sần sùi nứt nẻ y chang bàn chân của những người làm ruộng Việt Nam chuyên nghiệp, Vĩnh đã có ý nghĩ thống khoái hơn hết những ý nghĩ khác: ‘Tất cả công cuộc cải tạo gọi là vĩ đại của chủ nghĩa cộng sản, rốt cuộc chỉ có khả năng cải tạo nổi một cái gót chân ta!’" (trang 316). Chỗ khác: "Vĩnh không khỏi ngậm ngùi trước tình chiến hữu của các bạn. Cả một đoạn đường dài đã đi qua, giờ ngồi nhìn lại mới cho anh thấy rằng trừ vài thằng cốt thú đội lốt người, kỳ dư chẳng ai ‘tiến bộ’ cả, chẳng ai có thể bỏ anh em mà chạy theo cộng sản cả..." (Trang 328). Ở những đoạn khác, Hà Thúc Sinh đã cho ta biết quan niệm của ông về những vấn đề liên quan đến việc mất Sài Gòn, đến những người làm ăng-ten cho cộng sản, đến Quốc ca và Quốc kỳ, đến cái đói và ý chí của con người, đến các nhà văn, nhà thơ trước 1975 ở Sài Gòn, và một vài ý nghĩ thầm kín của ông ta. Ðể hiểu thêm về tác giả, ông Hà Thúc Sinh, chúng ta hãy lần lượt đọc những ý nghĩ của ông viết về những vấn đề không những quan trọng đối với tác giả mà cũng quan trọng đối với tất cả những người Việt Nam hiện tị nạn định cư tại nước ngoài. Về vấn đề mất Sài Gòn, ông viết: "Có thực mình thua cộng sản không? Tại sao lại xảy ra một cuộc tháo chạy lạ thường dường ấy? Ðã bao lần Vĩnh nghĩ tới hai chữ gia đình (...) Ngoài những nguyên nhân xa là sự tương nhượng của các cường quốc có dính líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam, nguyên nhân gần đem đến sự sụp đổ nhanh như một toà nhà trên vùng động đất của miền Nam chính vì hai chữ gia đình! Nếu năm 1954 cũng vì hai chữ gia đình, bảo vệ gia đình được toàn vẹn, người miền Bắc đã di cư xuống miền Nam, lập thành một chiến tuyến chống lại chủ nghĩa tam vô của cộng sản cách hữu hiệu, thì cũng vì hai chữ gia đình, hai mươi mốt năm sau người quốc gia thua về tay cộng sản. Ðánh làm sao được khi mà thê tróc tử phược. Ðánh làm sao được khi mà người quốc gia hoàn toàn khác cộng sản ở chỗ cộng sản chỉ có mục đích duy nhất phục vụ đảng và coi đảng như cứu cánh tối hậu cho ý nghĩa của cuộc nhân sinh. Ðảng còn, còn tất cả; đảng mất, mất tất cả. Còn người quốc gia thì từ anh binh nhì lên đến ông đại tướng, từ anh xích lô lên đến ông tổng thống, ai cũng có khuynh hướng đầu tư tất cả vốn liếng đời mình vào gia đình, vào bầy con. Với ý niệm huyết tộc trên hết, lâu ngày chầy tháng ý niệm này đã tiêu thực mất cả ý niệm về tổ quốc và tôn giáo (mà ít ai ngờ tới). Nói tóm lại, gia đình với người quốc gia Việt Nam trước năm 1975 đã thật sự trở thành cứu cánh sau cùng. Cứu cánh ấy mất là mất tất cả. Thế nên trong lúc biến, hầu hết chỉ lo làm sao bảo vệ được toàn vẹn gia đình, dù bảo vệ cách tiêu cực nhất là đem gia đình bỏ chạy. Chao ôi tình cảm gia đình thiêng liêng lắm, nhưng đau đớn thay, chẳng ai ngờ được rằng có lúc chính cái tình cảm ấy đã huỷ diệt đi sự sống tự do của cả một dân tộc" (trang 117-118). Cũng về vấn đề này, ở một đoạn khác, ông viết: "Chao ôi, mình thua chúng nó rốt cuộc chỉ vì hai nguyên do. Nguyên do thứ nhất là chúng ta đã bất hạnh có một thế hệ đàn anh cầm quyền, lèo lái quốc gia, khi mà chính bản thân họ chưa được trang bị kiến thức và đạo đức tối thiểu của những người lãnh đạo, chưa có khả năng để phân biệt nổi đâu là ranh giới của nhà bếp và nhà nước. Nguyên do thứ hai là chúng ta đã bất hạnh có một thằng bạn đồng minh ích kỷ và lọc lừa..." (trang 507). Về những tù làm ăng-ten cho cộng sản, tác giả kể chuyện một cựu sĩ quan cấp uý tên Lê Bá Lý, được cộng sản cử làm cai nông trường, mà ở đó các người tù, trong có tác giả, phải thay phiên nhau kéo cày thay trâu bò để làm ruộng. Lê Bá Lý chửi bới hăm he, nạt nộ đồng bạn tù để lấy điểm với cộng sản. Một hôm Lê Bá Lý bị tù trùm chăn khiêng ra dãy cầu tiêu treo cổ nhưng không hiểu vì lý do nào Lý thoát chết. Thay vì tỉnh ngộ, hắn càng ra tay triệt hạ anh em tàn bạo hơn (trang 506). Bàn về những tù ăng-ten, tác giả viết: "Tiến chen vào: ‘Rầu mấy ông ăng-ten quá. Sống đã khổ quá rồi còn hành hạ nhau làm gì nữa. Lắm khi tao không hiểu vì đâu lại có tệ ăng-ten trong tù. Chả lẽ giờ lại còn có kẻ tin rằng đi làm chó săn sẽ được về sớm hơn chăng? Thà lên năm lên mười, đây thằng nào cũng có sạn trong đầu cả, ấy thế mà vẫn làm những chuyện tào lao gì đâu.’ Tạc nói: ‘Chuyện này không phải là chuyện lên năm lên mười. Chuyện này là chuyện của bản chất con người. Gần hai năm qua, ai cũng có thể biết rõ một điều chưa có thằng nào bị thúc súng vào lưng bắt làm ăng-ten cả. Dù cũng có một vài trường hợp bị khung chiếu cố và bắt chẹt chuyện nhà, nhưng mình tiếp tục cứng nó cũng chẳng làm đếch gì được mình. Nói cho cùng nó cũng chẳng có quyền gì. Chỉ là một đám cai tù thuần tuý. Nhiệm vụ duy nhất là giữ sao cho tù không thoát chạy. Có thế thôi. Nịnh bợ, van xin, tâng công, chỉ điểm... người có óc phải hiểu rõ đó là những hành động cực kỳ vô ích chứ" (trang 521-522). Ðề cập đến thái độ của một số văn, thi sĩ trong cuộc chiến chống cộng khi nhớ lại hai câu thơ của nhà thơ Luân Hoán, tác giả viết: "Câu thơ ấy ngày xưa Vĩnh đọc chả thấy gì tai hại, nhưng ngày nay nhớ lại Vĩnh không khỏi bàng hoàng. Thế hệ của anh, của Luân Hoán, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Tuấn Kiệt... những người không vướng vào cái tai hại làm thơ huê tình ve gái ngay giữa thời chiến, nhưng lại dính vào một lỗi lầm có lẽ trầm trọng hơn: Ðã tìm cách bi thảm hoá cái thân phận mình một cách hơi lố bịch, buồn cười hơn là lại bi thảm hoá nó ngay lúc đối đầu với kẻ thù. Có ích lợi gì không, hay chỉ làm cho chính mình bị thui chột dần đi cái ý chí tranh đấu cần thiết trong một cuộc chiến sinh tử, nói thẳng ra, tự làm thui chột đi cái bản năng tự vệ mà đến một con thú nó cũng cần phải có một cách nguyên vẹn và đầy đủ. Trong cuộc chiến vừa qua, phải nói hơn một lần Vĩnh và các bạn đồng thế hệ đã can tội tự sát trong tư tưởng (trang 614). Ðể kết thúc, hai đoạn ngắn sau đây cho ta biết thêm về tác giả, tâm tư của ông và thái độ thầm kín, sau khi mẹ và vợ tác giả được vào trại thăm nuôi, lúc hết giờ vệ binh đuổi thân nhân về và xua tù trở lại trại giam: "Tên vệ binh phụ trách hướng dẫn của trại một đã hò hét bắt người đại diện tập họp anh em cho khẩn trương. Rồi thì những người thân bị xua đuổi dạt ra xa. Ðội hình trại một được thiết lập mau chóng không thiếu một ai. Tiếng hô hoán, tiếng điểm danh, tiếng báo cáo lại vang lên. Vĩnh không sao tránh khỏi cảm giác ngượng ngùng khi thấy mẹ và vợ chằm chằm ngó anh đang làm những động tác chào kính và tuân lệnh thật đốn mạt của kẻ thua trận. Bỗng dưng anh thấy trong lòng đau đớn, đau lắm; cái đau của một vết thương vô hình một lần nữa lại rách ra và hành hạ anh kịch liệt. Chao ôi, đời một chiến binh, một chiến binh hèn hạ, thua trận mà không dám tự sát như những chiến hữu khác!" (trang 457). Và ở một chương khác, sau khi toà án nhân dân cộng sản xử tử hình anh Nguyễn Ngọc Trụ, Hà Thúc Sinh nhớ lại câu nói của Ðặng Xuân Bính lúc hắn xúc xẻng đất đắp lên phần mộ của Trụ: "Người chết đã
sạch nợ, nhưng người còn
sống mà không nhớ, không cách
này cách khác thanh toán sòng phẳng
món nợ này thì còn thua cả
một con chó!" (trang 501).
Mai Liên
(trích tạp chí Chiến Hữu, Paris, 1985) |
|
![]() |